Vậy nguồn gốc sự ra đời karaoke là ở đâu? Nguồn gốc của karaoke ở Nhật Bản không thể tách rời khỏi các quán bar chơi piano và guitar truyền thống vốn là địa điểm giải trí chủ yếu của các doanh nhân Nhật từ nhiều năm về trước. Trong các quán bar đó, khán giả có thể được mời hay tình nguyện hát với nhạc đệm của piano hay guitar. Đại đa số cho rằng karaoke đã bắt đầu tại thành phố Kobe của Nhật vào những năm 1970. Kobe là thành phố cảng vùng Kansai vốn đã mở cửa cho thương mại quốc tế vào đầu năm 1868 thời kỳ Meiji. Như một cánh cổng mở cho Nhật Bản, Kobe nổi tiếng và vinh hạnh là thành phố đứng đầu về thời trang; sự kiến tạo rất nhiều lĩnh vực kinh doanh và các sản phẩm lạ thường như mì ăn liền, siêu thị, các nhà tắm hơi, các cửa bán vé tự động... Có một châm ngôn của người Nhật như sau: "Khuynh hướng mới đến từ phía Tây Nhật Bản (có nghĩa là Kansai) và thời trang thì đến từ Kobe". Và karaoke đã ra đời đằng sau một câu chuyện kể rằng ở một quán bar nọ tại thành phố Kobe, khi người ca sĩ vì lý do nào đó không thể có mặt để biểu diễn, ông chủ quán bar đã quyết định bật băng ghi nhạc và đề nghị mọi người hát. Và từ khởi nguồn đơn giản như thế, karaoke đã nhanh chóng trở thành phổ biến. Việc môi trường thiên nhiên bị hạn chế và việc đô thị hoá ngày càng gia tăng làm cho ngày càng ít không gian cần thiết cho những hoạt động nghỉ ngơi ngoài trời, và đương nhiên, lý do đó đã khuyến khích cho việc phát triển việc kinh doanh giải trí trong nhà như bar, karaoke, sauna... Việc hạn chế không gian cũng như nhu cầu cách âm đã dẫn đến việc tạo ra các "hộp" karaoke, một phương tiện bên lề đường có các phòng cách âm đóng kín cửa. Hộp karaoke đầu tiên xuất hiện vào năm 1984 trên cánh đồng lúa tại miền quê Okayama, phía tây Kansai. Nó được làm từ những toa xe chở hàng đã được cải tạo lại. Từ đó, các hộp karaoke được xây dựng trên những vùng đất trống khắp nơi trên đất nước Nhật, và trong khu vực thành thị, những phòng karaoke chia ngăn và cách âm cũng được giới thiệu và lần lượt mọc lên.
Sự phát triển của video âm nhạc như một hình thái kinh doanh mới phát triển của ngành công nghiệp âm nhạc mang phong cách dân gian hiện đại là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển của karaoke. Karaoke thực sự đã bùng phát từ Nhật Bản sau sự phát triển của công nghệ đĩa lazer (LD) và đĩa compact (CD + đồ hoạ), cho phép lời bài hát hiển thị trên màn hình TV trong khi âm nhạc nổi lên và xác định được lập tức vị trí của từng bài hát. Vì quyền lợi của các công ty thu âm, việc thương mại hoá ngành kinh doanh karaoke là trung gian tuyệt vời cho việc quảng cáo những bài hát nhạc Pop và các ngôi sao mới. Karaoke, trong tiến trình phát triển của mình, đã có những sự tiến hóa nhất định. Từ những ngày đầu được ghi trên băng ghi âm, karaoke đã được chuyển sang dạng đĩa CD (compact disc), cuối cùng kết hợp với video, đồ họa cùng với văn bản bài hát trên màn hình nhằm nhắc cho những ai không nhớ lời bài hát. Một ngành công nghiệp toàn diện đã được mở ra xung quanh karaoke và các sản phẩm kỹ thuật đã được sử dụng để nâng cao việc trình diễn. Những dàn máy ở nhà, các thư viện phần mềm hoàn thiện, các microphone cho khách, và những chiếc hộp để đựng chúng đều sẵn sàng cho người hát karaoke. Những hệ thống âm thanh hoàn thiện cho các kĩ sư và các công ty cao cấp ngày nay cũng dễ dàng tìm thấy. Các phòng thu đã mở cửa cho các cá nhân hát karaoke có nhu cầu thu âm. Các trang Web và các câu lạc bộ người yêu thích trên toàn thế giới đã nối kết với nhau để làm cho thế hệ mới của các nhóm karaoke có thể liên lạc, giao lưu với nhau. Các cuộc thi hát karaoke cũng được tổ chức ở khắp mọi nơi. Ngày nay bạn có thể tải những bài hát karaoke trên mạng xuống và tập hát với màn hình máy tính của mình. Và tiện lợi hơn nữa cho những người yêu thích hát karaoke, vào khoảng tháng 6-2004, tại Nhật sẽ cho ra mắt loại máy điện thoại di động có chức năng như một dàn karaoke mini và như chiếc microphone. Người sử dụng chỉ việc tải bài hát xuống, cắm chiếc điện thoại vào màn hình là đã có thể hát được.
Karaoke không chỉ đơn thuần là ý tưởng lỗi lạc và sáng tạo bỗng xuất hiện trong đầu một ai đó, sự phát minh ra và sự phổ biến của nó tại Nhật Bản đã gắn chặt chẽ, sâu sắc với nền văn hoá Nhật. Giá trị tập hợp là một thuộc tính quan trọng nhất của văn hoá Nhật Bản. Sự công nhận một bản ngã riêng biệt nào đấy chỉ đạt được thông qua việc tạo lập, duy trì và củng cố mối quan hệ đó với những người khác. Tinh thần cộng đồng có nguồn gốc sâu xa từ những hệ tư tưởng phương Đông cơ bản được hình thành đầu tiên bởi đạo Khổng và đạo Lão. Triết học hàng đầu của Nhật Bản Shintoism (Thần đạo) thực tế là phần mở rộng của đạo Lão. Việc nhấn mạnh nhu cầu hoà hợp là sự quan tâm hàng đầu của tất cả các triết học này. Triết học này cho rằng nhân cách con người chỉ có thể có được trong mối quan hệ với những người khác của xã hội loài người. Các mối quan hệ xã hội là một phần không thể tách biệt của đời sống con người. Mục tiêu của việc giải trí trước tiên không phải chỉ là giải trí cho riêng mình, mà là một cách để hoà mình một cách thích thú vào một nhóm và tác động qua lại lẫn nhau. Trên cơ sở đó, rất có lý để nói rằng karaoke không chỉ được ưa chuộng vì có vai trò giải trí mà nó còn có một chức năng xã hội quan trọng. Không ai đi hát karaoke một mình, và thế có nghĩa là bạn cần phải đi cùng bạn bè đến đó, hoặc là đồng nghiệp, thậm chí các thành viên trong gia đình.
Xã hội Nhật Bản là một xã hội đoàn thể, có nghĩa là cả xã hội hết lòng hướng tới đoàn thể. Một cá nhân được nhận biết trong đoàn thể. Giờ làm việc rất dài là chuẩn mực của con người đoàn thể. Cuộc sống con người xoay quanh đoàn thể, có chức năng như một phần của những cỗ máy sản xuất. Sự bó hẹp đối với cuộc sống cá nhân đã trở nên không nhất thiết bắt buộc. Hơn nữa, giá trị của sự hài hoà và tư tưởng nhóm hạn chế con người thể hiện ý muốn và ý kiến vị kỉ của họ. Tuân thủ mệnh lệnh và thực hiện cần cù, siêng năng nhiệm vụ được giao là nguyên tắc sống. Sự ngăn chặn chủ nghĩa cá nhân là một lý do khác nữa cho việc phát triển của karaoke. Karaoke cho cá nhân một cơ hội trong số không nhiều cơ hội lắm để có thể thể hiện mình trước những người khác với chính giọng của mình mà không bị gán cho là tự kiêu tự đại hay tự coi mình là trung tâm. Nó đáp ứng lòng mong muốn hay sự thôi thúc ngấm ngầm được công nhận như một cá nhân. Đối với những người sống trong xã hội đầy stress, thì không có một hình thức giải trí nào khác có thể làm họ khỏe khoắn, tỉnh táo và bớt căng thẳng như karaoke.
Karaoke là một phần thiết yếu trong văn hoá Nhật. Với sự khuyến khích thích đáng, trẻ em và người lớn có thể học để có được sự tự tin khi đứng trước đám đông. Chúng ta đã từng thấy không ít học sinh phải lúng túng khi trả bài trước cả lớp. Hẳn là mọi việc sẽ rất khác nếu như trước đó họ tham gia hát karaoke, hát trước tất cả các bạn cùng lớp và thầy giáo của mình. Chỉ cần một sự khuyến khích nhất định như tràng vỗ tay hay một cách vỗ vai khi nói "bạn hát rất cừ", đã có thể giúp các học sinh đó dần dần có được sự tự tin cần thiết để có thể nói trước đám đông. Một số công ty Nhật còn cho vào nội quy bắt buộc việc tham gia hát karaoke. Tất cả các nhân viên của công ty, gồm cả thủ trưởng, giám đốc sẽ ngồi cùng nhau và xem từng người lần lượt biểu diễn. Đây là một hình thức giải trí vui vẻ sau những giờ lao động mệt mỏi, căng thẳng, giúp làm tăng thêm sự tự tin của mỗi nhân viên, là cơ hội giao lưu với đồng nghiệp, thắt chặt tình đoàn kết gắn bó. ở Nhật, karaoke được nhiều người ngưỡng mộ đến nỗi mà một số nhà còn có máy hát karaoke trong từng phòng, từ phòng khách đến phòng ngủ. Thậm chí taxi cũng được trang bị dàn karaoke để khách có thể hát trong khi lái xe đưa họ đến điểm cần thiết. Karaoke còn rất có lợi cho sức khoẻ. Một số bác sĩ chuyên khoa trị liệu bằng âm nhạc đã dùng liệu pháp karaoke với các công dân luống tuổi và trẻ em có nhu cầu đặc biệt bởi họ có thể dùng những bài hát quen thuộc như biện pháp trị liệu cho bệnh nhân của mình. Đây là một cách hữu hiệu để giữ cho trí óc người già được minh mẫn, và karaoke đã giúp họ bằng cách khi âm nhạc nổi lên, người già có thể nhận diện được các từ xuất hiện trên màn hình. Trẻ nhỏ thì có thể nhìn thấy chữ viết của những bài hát mẫu giáo yêu thích của chúng và đối với chúng, được học cách đọc những bài hát đó chắc chắn sẽ rất thú vị. Liệu pháp karaoke còn được dùng với những bệnh nhân hen suyễn. Ban đầu, bệnh nhân hát karaoke nhưng không thể kết thúc bài hát bởi anh ta đã hết hơi và buộc phải dừng lại. Sau một vài tháng, anh ta đã có thể hát trọn một bài hát. Một trường hợp khác phải thở oxy thường xuyên và rất khó ngủ về đêm. Sau khi sử dụng biện pháp trị liệu bằng karaoke hai tháng, bệnh nhân này đã không còn phải sử dụng oxy liên tục và ngủ tốt hơn rất nhiều. Tại sao lại có được những kết quả đó? Có lẽ bởi vì phần lớn mọi người chỉ sử dụng phần trên của phổi để thở trong khi ta nên dùng cả phổi để thở. Nếu muốn hát hay, ta cần phải hít một hơi sâu, dùng cơ hoành để lấy thêm không khí vào phổi. Làm nhiều sẽ thành thói quen, và do đó dung tích của phổi sẽ lớn hơn và nhiều oxy sẽ có khả năng chuyển vào cơ thể ta hơn. Hãy cố gắng hát một bài hát nhanh, nó có thể cho ta kết quả như tập thể dục nhịp điệu vậy.
Người Nhật không chỉ hát những bài hát tiếng Nhật, mà cả những bài hát phương Tây. Họ học những bài hát tiếng nước ngoài: Anh, Pháp, Trung Quốc, Hàn Quốc... Những bài hát phổ biến là những bài do Elvis và The Beatles hát mặc dù những bài hát hiện đại lúc nào cũng sẵn sàng. Đây không chỉ đơn thuần là hát những bài khác đi, mà chính là họ đã thực tập những kĩ năng tiếng Anh mặc dù không nhận ra điều đó. Và vấn đề cũng tương tự với những người nước ngoài học tiếng Nhật, họ có thể hát những bài hát karaoke bằng tiếng Nhật. Đây là một cách rất tốt để làm ngạc nhiên các bạn Nhật, củng cố tình đoàn kết giữa các dân tộc, tăng cường giao lưu văn hóa toàn cầu, giúp các dân tộc hiểu nhau hơn, gần gũi nhau hơn.
Sự nổi lên của karaoke, bắt đầu tại Nhật Bản hơn 30 năm qua và gắn chặt với nền văn hoá dân tộc độc đáo, đã phổ biến rộng rãi sang nước ngoài và được hưởng ứng nhiệt liệt, rộng rãi không chỉ tại Hàn Quốc, Trung Quốc, Đông Nam á, mà còn khắp châu Âu, châu Mỹ bởi không chỉ lớp trẻ. Những người khách từ các nước khác nhau, ấn tượng với những gì nhìn thấy tại Nhật, vay mượn ý tưởng khi họ trở về nước và làn sóng mới lại bắt đầu. Thậm chí họ đã đổi tên nó nhiều lần cho phù hợp với những nhu cầu và ngôn ngữ của họ, nhưng nó vẫn được biết đến dưới cái tên chung karaoke. Ngày nay, chúng ta có thể thấy karaoke ở khắp mọi nơi, trong các quán bar, nhà hàng, câu lạc bộ, và ngay cả tại các cuộc hội chợ và vào các ngày lễ trên toàn thế giới. Có những yếu tố rõ ràng đã đóng góp không những cho thành công hiện tại của karaoke mà còn cho những triển vọng trong tương lai. Thứ nhất, không có gì thuyết phục hơn là niềm vui không cưỡng lại được do karaoke mang lại. Con người yêu âm nhạc. Con người thích được hát. Và karaoke có thể giúp người ta hát hay hơn khả năng thực. Sự tự hoàn thiện là bản chất con người nói chung dù có là nền văn hoá nào cũng thế. Thứ hai, sự tương tác về văn hoá thường xuyên giữa Tây và Đông làm cho thế giới trở nên đa dạng hơn bao giờ hết. Con người, dù ở bất cứ đâu, cũng luôn sẵn sàng đón nhận bất cứ cái gì được gọi là cái hay, cái tốt. Mặc dù vấn đề thế giới có đang trở nên đồng nhất hay không vẫn còn đang được tranh cãi, nhưng sự hội tụ thì là vấn đề chắc chắn. Thứ ba, tính phổ biến của karaoke cũng do sự đơn giản và linh hoạt trong việc sử dụng khi thao tác. Để hát karaoke bạn chỉ cần có một chiếc TV, đầu băng (đĩa) và băng (đĩa). Đơn giản hơn, ngày nay bạn có thể hát karaoke trên máy vi tính của mình. Điều này được áp dụng với tất cả các chủng loại âm nhạc, từ nhạc Pop mới nhất hay nhạc trữ tình, đến nhạc Rock cổ điển, những bài hát dành cho trẻ em, những bài thánh ca, dân ca... Thứ tư, khi karaoke trình bày lời bài hát và cảnh trên màn hình, nó đồng thời cũng đang tập trung sự chú ý của các nước muốn cải thiện tỷ lệ mù chữ, như giáo cụ hữu hiệu. Đây có thể là một tác động gây bất ngờ của karaoke.
Karaoke đã đáp ứng nhu cầu được chú ý và được thể hiện. Nó đã trở thành phổ cập trong nhu cầu giao lưu giữa một cá nhân với một nhóm người, giữa một nhóm với một nhóm và giữa những con người thuộc các nền văn hoá khác nhau. Thuật ngữ karaoke, dù có được phát âm khác nhau trong các nền văn hoá khác nhau, đã được thừa nhận là ngôn ngữ chung. Nó không chỉ được ghi vào từ điển của người Nhật, mà còn có trong từ điển tiếng Anh Oxford, một từ điển uy tín nhất của nước Anh và của thế giới.